1. Loét dạ dày
1.1. Triệu chứng: đau là triệu chứng chính có nhiều tính chất.
- Đau từng đợt mỗi đợt kéo dài 2 - 8
tuần cách nhau vài tháng đến vài năm. Đau gia tăng theo mùa nhất là vào mùa
đông tạo nên tính chu kỳ của bệnh loét. Tuy nhiên các biểu hiện lâm sàng của
viêm vùng hang vị xảy ra trước loét có thể làm mất tính chu kỳ này.
- Đau liên hệ đến bữa ăn, sau ăn 30
phút - 2 giờ; thường đau nhiều sau bữa ăn trưa và tối hơn là bữa ăn sáng.
- Đau kiểu quặn tức, đau đói hiếm hơn
là đau kiểu rát bỏng. Đau được làm dịu bởi thuốc kháng toan hoặc thức ăn, nhưng
khi có viêm kèm theo thì không đỡ hoặc có thể làm đau thêm.
- Vị trí đau thường là vùng thượng vị.
Nếu ổ loét nằm ở mặt sau thì có thể đau lan ra sau lưng. Ngoài ra có thể đau ở
bất kỳ chổ nào trên bụng.
Một số trường hợp loét không có triệu
chứng và được phát hiện khi có biến chứng.
1.2. Lâm sàng: nghèo nàn, có thể chỉ có điểm đau khi
đang có đợt tiến triển, trong loét mặt trước có thể có dấu cảm ứng nhẹ vùng
thượng vị. Trong đợt loét có thể sút cân nhẹ nhưng ra khỏi đợt đau sẽ trở lại
bình thường.
1.3. Xét nghiệm: Các xét nghiệm sinh hóa ít có giá trị
trong chẩn đoán:
- Lưu lượng dịch vị cơ bản thấp (BAO)
- Lưu lượng sau kích thích (MAO) bình
thường hoặc giảm trong loét loại 1. Trong loét loại 2 và 3 sự tiết dịch vị bình
thường hoặc tăng. Trong loét dạ dày kèm vô toan cần nghĩ đến ung thư.
- Chụp phim dạ dày baryte và nhất là
nội soi cho thấy có hình ảnh ổ loét thường nằm ở hang vị, góc bờ cong nhỏ, đôi
khi thấy ở thân dạ dày hay tiền môn vị.
2. Loét tá tràng: xảy ra ở người lớn với mọi lứa tuổi.
Tuy nhiên, nhìn chung nó xảy ra trước 60 tuổi. Nam = 2 nữ và thường có yếu tố
gia đình.
2.1. Triệu chứng: đau là đặc trưng của loét tá tràng
thường rõ hơn loét dạ dày, vì ở đây không có viêm phối hợp. Các đợt bộc phát
rất rõ ràng. Giữa các kì đau, thường không có triệu chứng nào cả. Đau xuất hiện
2 - 4 giờ sau khi ăn tạo thành nhịp ba kỳ, hoặc đau vào đêm khuya 1 - 2 giờ
sáng. Đau đói và đau kiểu quặn thắt nhiều hơn là đau kiểu nóng ran. Đau ở
thượng vị lan ra sau lưng về phía bên phải (1/3 trường hợp). Cũnng có 10%
trường hợp không đau, được phát hiện qua nội soi hoặc do biến chứng và 10%
trường hợp loét lành sẹo nhưng vẫn còn đau.
2.2. Xét nghiệm: Trên 90% loét nằm ở mặt trước hoặc mặt
sau của hành tá tràng cách môn vị 2 cm. Đôi khi 2 ổ loét đối diện gọi là
“Kissing ulcers”. Nội soi cho hình ảnh loét tròn, là hay gặp nhất, loét không
đều, loét dọc và loét hình mặt cắt khúc dồi ý “salami” ít gặp hơn.
Sự tiết acid dạ dày thường cao bất
thường. Nội soi và phim baryte, cho thấy ổ đọng thuốc thường nằm theo trục của
môn vị ở trên hai mặt hoặc hình ảnh hành tá tràng bị biến dạng.Trong trường hợp
loét mạn tính xơ hóa, hành tá tràng bị biến dạng nhiều, các nếp niêm mạc bị hội
tụ về ổ loét làm môn vị bị co kéo, hoặc hành tá tràng bị chia cắt thành 3 phần
tạo thành hình cánh chuồn. Một hình ảnh biến dạng không đối xứng làm dãn nếp
gấp đáy ngoài và teo nếp gấp đáy trong tạo thành túi thừa Cole làm cho lổ môn
vị bị đổ lệch tâm. Nội soi có thể nhận ra dễ dàng ổ loét dođáy màu xám sẩm được
phủ một lớp fibrin, đôi khi được che đậy bởi các nếp niêm mạc bị sưng phù, các
loét dọc khó phân biệt với một ổ loét đang lành sẹo, trong trường hợp này bơm
xanh Methylene nó sẽ nhuộm fibrin có màu xanh.
Định lượng acid và gastrin được chỉ
định nếu nghi ngờ 1 sự tiết bất thường do u gastrin, một sự phì đại vùng hang
vị, cường cận giáp hoặc suy thận.